Hai Kiếp Đều Là Hỷ Hoan

Chương 2



4.

Ta thật sự tốt ư?

Năm ấy, khi Phó Yến Thanh ầm ỹ đến tận cửa lui hôn, lời hắn nói nghe thì đường hoàng hợp lẽ, nhưng trong từng câu chữ đều đổ hết sai lầm lên đầu ta.

Hắn vốn xuất thân cao quý.
Mà cậu ta của ta cũng chỉ là một chỉ huy Ngũ thành binh mã ty lục phẩm mà thôi.
Trong mắt người ngoài, ta là nữ tử xuất thân tiểu hộ, tính tình ngang ngược, chẳng biết quy củ, ắt hẳn vì thế mới khiến thế tử Phó gia chán ghét.

Hóa ra mọi tội lỗi đều bởi ta không đủ tốt.
Tất cả sự tự tin của ta năm ấy, chỉ bởi một câu “không đủ tốt” mà tan thành mây khói.

Ta từng rụt rè hỏi di mẫu:
“Có phải thật vì ta không đủ tốt, nên Phó Yến Thanh mới không thích ta?”

Di mẫu lắc đầu, ánh mắt dịu dàng kiên định.
“Thiên hạ nữ tử muôn hình vạn trạng. Có kẻ ưa loài mẫu đơn kiều diễm, cần được nâng niu chở che. Nhưng cũng có người lại yêu thích nhành cúc dại nơi khe núi, biết gồng mình chịu gió tuyết, vẫn nở rộ kiên cường.”

Lời của di mẫu, cùng câu “Thẩm cô nương rất tốt” của Tạ Thừa Cảnh, như hai vệt nắng ấm, xua đi tầng mây u tối còn vương lại trong lòng ta.

Thì ra, trên đời này vẫn có người có thể nhìn thấu sau lớp vỏ hà khắc của đồn đãi, mà thấy được con người chân thực của ta.

Hôn kỳ của ta và Tạ Thừa Cảnh, rốt cuộc cũng được đặt lên bàn định liệu.

Hầu gia Phó hồi kinh bẩm chức, vừa biết chuyện hoang đường Phó Yến Thanh đã làm, liền nổi giận rút gân hắn một trận, đánh đến mức nằm bẹp trên giường ba tháng liền không dậy nổi.

Ba tháng ấy, ta hiếm khi được hưởng chút thanh nhàn yên ổn.
Cũng là ba tháng, cả phủ trên dưới đều bận rộn chuẩn bị hôn sự của ta cùng Tạ Thừa Cảnh.

Khi biết Tạ Thừa Cảnh chẳng hề yếu nhược như lời đồn, biểu muội xông thẳng vào phòng ta, ôm chặt lấy ta mà khóc ròng:
“A Dư tỷ tỷ, cuối cùng muội cũng không còn phải nằm mơ thấy tỷ bái đường thành thân với một… con gà trống to nữa rồi.”

Di mẫu đang chọn đồ cưới cho ta nghe vậy thì vừa bực vừa buồn cười, giơ chân khẽ đá biểu muội một cái, trách yêu:
“Lớn tướng rồi mà miệng vẫn chẳng có cái then cửa nào hết!”

Biểu muội vội nép sau lưng ta, còn len lén làm mặt quỷ chọc ghẹo, khiến ta và di mẫu cũng nhịn không được mà bật cười.

Ánh dương buổi trưa xuyên qua song cửa sổ, chiếu xuống rổ hoa quả tươi rói vừa được Tạ Thừa Cảnh sai người đưa tới.
Hắn thường gửi quà tặng cho ta.

Mỗi khi Thiên Hương Lâu có món điểm tâm mới, tiểu nhị liền hớn hở mang đến phủ một phần.
Biết ta quen cầm kiếm luyện võ, hắn tặng ta xương tiên chế thành roi, bảo kiếm mềm dễ mang theo bên người…
Còn hôm nay, lại là giỏ hoa quả tươi đầu tiên.

Bất giác, ta chợt nhớ đến bài thơ từng học thuở nhỏ:

“Người trao ta quả mộc, ta hồi đáp bằng ngọc lưu ly.”

Nghĩ đến đây, trong lòng ta khẽ dâng một niềm ấm áp.
Có lẽ, đã đến lúc ta cũng nên chuẩn bị một món quà, để hồi đáp tấm tình của Tạ Thừa Cảnh.

 

5.

Còn cách ngày thành thân đôi chút, ta quyết định quay lại Thanh Lộc Sơn một chuyến.
Một là để đưa thiệp mời cho sư phụ đang ẩn cư nơi núi rừng.
Hai là vì Thanh Lộc Tự vốn nổi danh linh nghiệm, ta muốn cầu cho Tạ Thừa Cảnh một lá bùa bình an.

Bùa bình an ở Thanh Lộc Tự chẳng dễ mà có.
Người cầu bùa phải theo cao tăng, trải qua đủ lễ tụng kinh, trì chú, quán tưởng, từng bước một không được lơ là.

Đến ngày cuối cùng của quán tưởng, ta ôm quyển kinh vừa chép xong, tìm đến gặp đại sư Thích Không, mong người phê cho Tạ Thừa Cảnh một đạo “Lục Thời Cát Tường”.

Sau khi nghe rõ ý ta, đại sư đặt chuỗi Phật châu xuống, mỉm cười hiền hòa:
“Bần tăng nhiều năm trước từng vì cô nương mà phê chữ, xem ra cũng là duyên phận chẳng phải ngẫu nhiên.”

Ta thoáng ngẩn người.
Sư phụ ta chưa bao giờ tin Phật, tất nhiên chẳng thể thay ta cầu được.
Người duy nhất ta từng nghe nói muốn cầu bùa cho ta, chỉ có Phó Yến Thanh.
Nhưng khi biết chỉ riêng việc tụng kinh đã cần đủ bảy bảy bốn mươi chín ngày, hắn liền bỏ dở giữa chừng, huống chi là phải nhọc công thỉnh đại sư phê chữ.

Ta nhất thời nghĩ mãi cũng không đoán ra.

Đại sư không để ta băn khoăn lâu, liền thong thả mở miệng:
“Là tam công tử Tạ gia, Tạ Thừa Cảnh.”

Nói đoạn, ông mở ngăn kéo, lấy ra một đạo bùa đã ngả màu thời gian, đưa đến trước mặt ta.
Nét mực trên giấy sớm đã khô cạn, chỉ còn lại bốn chữ “Phúc Huệ Song Tăng”.

Đại sư tiếp lời:
“Đây là lá bùa mà mười năm trước Tạ tam công tử nhờ bần tăng viết. Không hiểu vì nguyên cớ nào, hắn lại gửi bùa này tại chùa, dặn rằng nếu có ngày sẽ quay lại nhận.”

Ta cúi đầu nhìn hàng chữ trên lá bùa, tâm tư bỗng rối loạn.
Mười năm trước, ta mới bảy tuổi, khi ấy còn ở Thanh Châu, chưa từng quen biết Tạ Thừa Cảnh.
Vậy vì sao, ở tận kinh thành xa xôi, Tạ tam công tử lại hao tâm khổ tứ cầu cho ta một đạo Phúc Huệ Song Tăng?

Nhớ đến lời Phó Yến Thanh từng nói: “Tạ Thừa Cảnh không quá ba năm sẽ chết,” một ý nghĩ hoang đường lại len lén nảy sinh trong lòng ta…

 

6.

Lần nữa nhận được lời hẹn của Phó Yến Thanh, ta mang theo muôn vàn nghi hoặc mà đến.
Hắn dường như không ngờ ta thật sự chịu tới, ngẩn người trong chốc lát.

Chén trà hắn đưa tới, ta không buồn nhận.
Thẳng thắn hỏi ngay:
“Phó Yến Thanh, vì sao ngươi dám nói Tạ Thừa Cảnh sống chẳng quá ba năm?”

Trong mắt hắn thoáng hiện lên chút đắng chát.
“A Dư… nếu ta nói ta là kẻ trọng sinh, nàng có tin chăng?”

— Tiền kiếp.

Sau khi lui hôn với ta, Phó Yến Thanh bỏ ra một khoản lớn chuộc Liễu Khanh Khanh ra khỏi thanh lâu.
Nhưng Phó gia trăm năm vọng tộc, sao chịu để một kỹ nữ phong trần ngồi vào vị trí chủ mẫu?
Dẫu hắn khẩn cầu đến nát cả miệng lưỡi, Phó phu nhân cũng chỉ nhượng bộ, cho Liễu Khanh Khanh một danh phận thiếp thất mà thôi.

Về sau, hắn mù quáng dính vào tranh chấp phe cánh của hoàng tử, khiến Phó gia lâm vào hiểm cảnh, bản thân cũng bị giam ngục.

Nhắc đến đây, hắn khựng lại, trong mắt ánh lên những tia lệ ngân.
“Liễu Khanh Khanh khi gặp nạn chỉ biết khóc lóc, cầu khẩn thần Phật.
Còn nàng, A Dư… là người đã chạy ngược xuôi, lo lót khắp nơi, mới gắng cho ta một con đường sống.”

Thanh âm nghẹn lại, run run như nức nở.
“A Dư… là ta sai, sai khi coi ngọc là đá, để mắt cá che lấp trân châu.”

Nghe đến đó, ta bật cười lạnh lẽo.
Phó Yến Thanh khi thì say mê vẻ rực rỡ của hoa kiều diễm, đến lúc phong sương giáng xuống, lại chê hoa kia không chống nổi gió tuyết.

Kiếp trước ta quả thật là quá hèn mọn, cứ một mực chạy theo để cứu hắn, chẳng khác nào tự dẫm nát tôn nghiêm của chính mình.

Ngón tay ta khẽ vuốt lên lá bùa bình an bên hông, trong đầu lại thoáng hiện ra gương mặt xanh xao mà thanh nhã của Tạ Thừa Cảnh, không hiểu sao bỗng dâng lên một tia xót xa.

“Vậy còn Tạ Thừa Cảnh thì sao?”

Phó Yến Thanh lặng im hồi lâu, mới chậm rãi mở miệng:
“A Dư, Tạ Thừa Cảnh tâm tư sâu kín, nàng nên tránh xa hắn thì hơn.
Kiếp trước, mãi cho đến khi hắn vì bệnh mà qua đời, phụ thân hắn vẫn còn sống bình yên.
Nàng thử đoán xem, tại sao ở kiếp này, phụ thân hắn lại đột ngột đoản mệnh?”

Đồng tử ta bỗng siết chặt, trong lòng dấy lên một nỗi bất an không rõ tên.

Tạ Thừa Cảnh — phụ thân sớm mất, mẫu thân ăn chay niệm Phật, không hỏi chuyện đời.

Ta vung tay chộp lấy thanh đoản kiếm đặt bên cạnh, xoay người toan rời đi.
Phó Yến Thanh hoảng hốt, vội nắm lấy cánh tay ta:
“Nàng không tin ta sao?”

Ta gật đầu.
“Tin.”

“Vậy tại sao nàng còn muốn gả cho kẻ bệnh tật kia?
Gả cho ta thì chẳng tốt hơn sao?”

Khóe môi ta cong lên một nụ cười lạnh nhạt, chẳng buồn che giấu sự châm chọc:
“Thế thì cứ coi như ta muốn nương nhờ vào cái chết sớm của phu quân, hưởng một đời yên ổn với tiền bạc và hài tử là được rồi.”

 

7.

Không rõ ta lỡ buông lời nào khiến Phó Yến Thanh sinh ra ảo tưởng.
Hắn ngang nhiên chặn xe ngựa giữa phố, giọng tha thiết đầy mong mỏi:
“A Dư, đợi Tạ Thừa Cảnh chết rồi, ta vẫn sẽ cưới nàng.”

Ta: “……”

Người ngồi bên cạnh khẽ liếc ta, khóe môi thấp thoáng ý cười, chậm rãi nói ra ngoài xe:
“Phó thế tử, ta còn chưa thành thân, ngươi đã mong ta chết, chẳng phải quá thất đức sao?”

Giọng không lớn, nhưng đủ để người ngoài nghe rõ mồn một.

Rèm xe bị người vén mạnh lên.
Ánh mắt Phó Yến Thanh rơi thẳng vào dáng ngồi đoan chính, tay cầm sách quyển, thần sắc điềm tĩnh của Tạ Thừa Cảnh, trong khoảnh khắc liền biến đổi dữ dội.

“Thẩm Tri Dư, ngươi thật chẳng biết xấu hổ!
Giữa thanh thiên bạch nhật, sao có thể cùng nam nhân đồng ngồi một xe?”

Khóe môi Tạ Thừa Cảnh cong lên, hiện ra một tia cười nhạt khó thấy.
“Phó thế tử, lời này nghe mới buồn cười làm sao.
A Dư là vị hôn thê của ta, đồng xe với ta có gì là không ổn?”

Ánh mắt hắn dần lạnh đi:
“Ngược lại, Phó thế tử chặn xe giữa đường, còn lớn tiếng nói lời khinh bạc với vị hôn thê của ta.
Chẳng hay ta có nên dâng sớ lên Hoàng thượng, trách Hầu gia dạy con không nghiêm?”

Đôi mắt Phó Yến Thanh lóe lên như rắn phun lưỡi, căm hận nghiến răng:
“Ta và A Dư thanh mai trúc mã, từ nhỏ đã có hôn ước.
Tạ Thừa Cảnh, ngươi cướp đoạt nhân duyên của người, ắt sẽ chẳng có kết cục tốt đẹp!”

Tạ Thừa Cảnh vẫn giữ nụ cười ôn hòa, chẳng mảy may biến sắc:
“Phó thế tử nói sai rồi.
Nữ tử trong thiên hạ, kẻ cầu thân có trăm, ngàn.
Ta cầu hôn khi ngươi đã lui, sao có thể gọi là đoạt nhân duyên?
Nói cho cùng, ta còn phải đa tạ Phó thế tử thành toàn cho ta mới đúng.”

Một câu này, lập tức khiến sắc mặt Phó Yến Thanh sầm tối, khó coi đến cực điểm.

“Nếu không phải ngươi chen ngang quấy phá, cho ta thêm một lần cơ hội, ta nhất định có thể—”

“Phó thế tử.”
Tạ Thừa Cảnh lạnh nhạt cắt lời hắn, giọng điệu không mảy may dao động.
“Bệ hạ vốn không ưa những chuyện liên quan đến quỷ thần.
Phó thế tử nên tự giữ mình, chớ nói càn.”

Chuỗi tua rua trên rèm xe bị Phó Yến Thanh siết chặt đến nhăn nhúm.
Hắn mím môi, ngẩng mắt nhìn ta, trong ánh nhìn lộ ra vài phần khẩn cầu.

“A Dư…”
Hắn khàn giọng, như cố nén lại bao nhiêu tuyệt vọng.
“Giữa ta và nàng… thật sự không còn khả năng nào nữa sao?”

Chương trước Chương tiếp
Loading...